- Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) – xuất phát từ các tế bào gan và nó phổ biến hơn ở nam giới và những người bị xơ gan. Đây là loại ung thư gan phổ biến nhất.
- Ung thư đường mật – đôi khi còn được gọi là ung thư ống mật, nó xuất phát ở ống mật trong gan.
- U nguyên bào gan – thường thấy ở trẻ em dưới 4 tuổi
- U máu ác tính – xuất phát trong mạch máu gan và phát triển rất nhanh.
Ung thư biểu mô tế bào gan là loại ung thư phổ biến thứ 4 trên thế giới và một trong 2 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Châu Á. Ung thư gan ở Châu Á kết nối chặt chẽ với nhiễm virut viêm gan B mãn tính.
Các nhân tố nguy cơ
- Xơ gan do bệnh gan tiến triển như nhiễm virut viêm gan mãn tính, bệnh gan do rượu, nhiễm sắc tố sắt (nơi cơ thể dự trữ lượng sắt quá dư thừa), thiếu hụt alpha 1 anti-trysin (sản sinh một số loại men gan bất thường), viêm xơ chai đường mật nguyên phát.
- Gia đình có tiền sử ung thư gan
- hút thuốc
- Ăn phải Aflatoxin, một chất độc có trong một số nấm mốc (những loại nấm mốc này có thể được hình thành trong những thực phẩm bảo quản không đúng cách đặc biệt là các loại ngũ cốc và các loại hạt)
- Phơi nhiễm trong thời gian dài với thạch tín
- Những người sử dụng chất tổng hợp kích thích tố dục nam
Các triệu chứng
Ung thư gan hiếm khi được chẩn đoán ở giai đoạn sớm vì các bệnh nhân không có triệu chứng gì trừ khi họ đi kiểm tra sức khỏe định kỳ. Ở giai đoạn tiến triển, các triệu chứng có thể nặng hơn
- Đau ổ bụng trên bên phải (đau có thể lan xuống lưng và vai)
- Ổ bụng sưng do chướng (dịch tích tụ trong ổ bụng)
- Cảm thấy đầy hoặc chướng bụng sau ăn
- Sụt cân đột ngột không rõ nguyên nhân
- Sốt cao, mệt mỏi, buồn nôn và nôn mửa
- Vàng da
- Mặt nhợt nhạt
- Sức khỏe đột nhiên xấu đi đối với những bệnh nhân bị viêm gan hoặc xơ gan
Chẩn đoán
- Xét nghiệm máu – xét nghiệm chức năng gan có thể bất thường và chỉ điểm khối u cụ thể (AFP) có thể tăng cao.
- Chẩn đoán hình ảnh – siêu âm, chụp cắt lớp, cộng hưởng từ hoặc chụp mạch
- Sinh thiết gan – có thể được thực hiện tù mù hoặc có sự hướng dẫn của hình ảnh (siêu âm hoặc hình ảnh cắt lớp) hoặc nhìn trực tiếp (nội soi hoặc mở)
Điều trị
Phác đồ điều trị phụ thuộc vào giai đoạn bệnh gan, chức năng gan, và tuổi tác của bệnh nhân và tình trạng sức khỏe. Giai đoạn của ung thư dùng để mô tả kích thước và số lượng khối u, và liệu nó đã di căn ra ngoài gan hay chưa. Việc này được xác định qua các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh.
Phẫu thuật dễ dàng với ung thư khi nó vẫn nằm trong gan
- Phẫu thuật cắt bỏ – ung thư gan có thể cắt bỏ cục bộ được xác định chỉ nằm trong gan và có thể phẫu thuật cắt bỏ, khi chức năng gan vẫn tốt.
- Ghép gan – ung thư gan không phẫu thuật được khi có xơ gan hoặc khối u phát triển trong phạm vi hai thùy gan trở lên.
Phẫu thuật cắt bỏ
Phác đồ điều trị không phẫu thuật được như sau:
- Nút mạch bằng hóa chất (TACE) – liên quan tới việc tiêm thuốc trực tiếp vào ung thư dùng động mạch gan. Nó kiểm soát hoặc thậm chí làm khối u co nhỏ lại.
- Đốt sóng cao tần (RFA) – dùng tia điện cực nóng phá hủy các tế bào ung thư. Nó được thực hiện qua kỹ thuật có hướng dẫn của hình ảnh (cắt lớp hoặc siêu âm) hoặc trong phẫu thuật
- Tiêm hoạt chất phóng xạ (ví dụ: yttrium) – đưa phóng xạ thẳng tới khối u.
Ở những bệnh nhân bị ung thư gan di căn, hóa trị hệ thống có thể được cân nhắc. Có thể qua đường uống hoặc tiêm.
TACE
Tiên lượng
Phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm cho phép phẫu thuật chữa khỏi bệnh. Tuy nhiên, phác đồ điều trị khác phẫu thuật có thể để kiểm soát bệnh và mang lại cho bệnh nhân chất lượng cuộc sống tốt hơn. Khi các bệnh nhân thấy có triệu chứng, thông thường nó đã ở vào giai đoạn ung thư gan tiến triển và tiên lượng thường không tốt. Ghép gan là sự lựa chọn duy nhất hiện nay cho những bệnh nhân ung thư gan nguyên phát bị xơ gan giai đoạn cuối và/hoặc bệnh gan tiến triển.
Để yên tâm, hãy nói chuyện với một trong số các bác sỹ của chúng tôi hôm nay.